Quy trình chế biến mủ tờ ở Cao su Lộc Ninh

Tạo tờ và xông sấy

a. Tạo tờ và cán bông

– Máy cưa lạng sử dụng có các chỉ tiêu số liệu như sau:

+ Từ lưỡi cưa đến trục kéo = 4,5 – 6 mm

+ Giữa 2 trục kéo = 3,5 – 4 mm

– Khi cưa lạng có độ dầy từ 8 -10 mm, bề ngang tờ mủ bằng với chiều cao khối mủ khi đánh đông trong mulo.

mủ tờ– Tờ mủ được di chuyển sang 2 máy cán bông, khe hở của 2 trục cán bông vừa chạm khít vào nhau. Trong khi máy cán hoạt động phải cung cấp nước liên tục trên tờ mủ, dùng để rửa tờ mủ, đồng thời làm giảm độ nóng do ma sát. Tờ mủ di chuyển từ máy cán bông số 1 sang máy cán bông số 2, bằng hệ thống mương nước có tạo áp suất đẩy. Sau khi đi qua 2 máy cán bông, bề dầy tờ mủ đạt từ 3,5 mm – 4,5 mm, thao tác trong giai đoạn này cần nhẹ nhàng và khéo léo, tránh làm đứt mủ và chai bề mặt tờ mủ đã tạo bông.

– Tờ mủ sau khi cán bông sẽ được cắt thành từng tờ, dao cắt phải bén, khoảng cách giữa dao quay và dao cố định phải vừa chạm nhau. Tờ mủ sau khi cắt có độ dài từ 1 – 1,2m.

b. Để ráo và xông sấy

– Tờ mủ sau khi cắt sẽ được phơi trên sào tre, mỗi sào từ 4 -6 tờ, không chồng các tờ mủ lên nhau. Sào tre sẽ được gác lên xe goòng, mỗi xe có từ 80 -90 sào tre, tùy theo từng loại xe goòng và kích thước các lò xông sấy.

– Xe mủ sẽ được chuyển xuống phơi ráo ở môi trường thoáng mát, không có ánh nắng chiếu vào và để từ 6 -12 giờ, sau đó chuyển vào lò xông.

– Quy trình xông sấy kéo dài trong 4 ngày liên tục:

+ Ngày thứ nhất chuyển vào buồng A xông với nhiệt độ 40 -45 độ C

+ Ngày thứ hai chuyển qua buồng B xông với nhiệt độ 45 – 50 độ C

+ Ngày thứ ba chuyển sang buồng C xông với nhiệt độ 50 – 60 độ C

+ Ngày thứ tư chuyển sang buồng D xông với nhiệt độ 60 -65 độ C

+ Ngày thứ năm chuyển ra khỏi buồng xông, kiểm tra mủ chín đều sẽ chuyển qua bộ phận làm kiện.

Có thể xông kéo dài đến ngày thứ năm nếu mủ chưa chín được đồng đều theo yêu cầu, hoặc do điều kiện thời tiết và môi trường thay đổi.

Phân loại và làm kiện

a. Phân loại xếp hạng

– Xe mủ được chuyển vào phòng làm kiện. Công nhân gỡ mủ ra khỏi sào tre, kiểm tra loại bỏ các tạp chất, dăm tre dính vào mủ. Kiểm tra cả hai mặt của tờ mủ, cắt bỏ những phần còn sống hoặc các đốm đen và phân hạng theo quy định tiêu chuẩn.

– Mỗi loại mủ sau khi phân hạng phải được cân theo từng loại riêng theo quy định, mỗi bành mủ có trọng lượng là 111,11 kg kể cả áo bao.

– Kiểm tra tình trạng cân trước khi sử dụng ở mỗi đầu ca sản xuất, mủ được cân xông phải làm kiện hết trong ngày.

b. Làm kiện

– Mủ được xếp vào khuôn theo quy trình như sau:

Ngang 3 tấm, dọc 3 tấm, 1 tấm ở giữa.

Nếp gấp tờ mủ phải sát thùng.

Thêm mủ theo chiều ngang hoặc chiều dọc để bành mủ được cân đối.

Rắc bột tal vào đáy khuôn và mặt khuôn tránh dính

– Dùng xe đẩy khuôn mủ vào máy ép, đậy nắp và chỉnh sửa cho mủ trên khuôn được ngay ngắn.

– Ép lần thứ nhất giảm ½ chiều cao khối mủ rồi xả ra. Điều chỉnh lại vị trí khối mủ rồi ép lần hai đến mức quy định rồi gài móc khuôn ép lại.

– Giữ mủ trong khuôn ép tối thiểu là 6 giờ để cố định bành mủ.

– Sau khi lấy bành mủ ra khỏi khuôn sẽ tiến hành bọc áo cho bành mủ.

– Lớp áo gồm 12 tờ: 4 tờ ngắn, 8 tờ dài, các tờ mủ sẽ được trải đều xung quanh bành mủ và được xăm cho dính vào khối mủ đã ép, sao cho bành mủ trở nên cân đối và vuông vức.

– Sơn bên ngoài bành mủ một lớp sơn trắng bảo quản, sử dụng bình quân 6 kg/tấn mủ khô. Loại sơn bảo quản này được chế biến theo yêu cầu chống thấm và bảo vệ lớp áo ngoài của bành mủ trong quá trình lưu kho và vận chuyển.

– Vẽ ký hiệu nhận dạng lên từng bành mủ theo quy định loại 1, 2, 3…

– Chuyển bành mủ lên mê gỗ có lót lớp tol ngăn cách bằng loại xe đẩy chuyên dụng, một mê tol chứa được 4 bành mủ và được di chuyển vào nơi quy định cho từng chủng loại. Mỗi chồng đặt không quá 5 mê tol.

P.V