Nâng cao vai trò của cao su tiểu điền trong chuỗi cung ứng

CSVN – Ngành cao su đã và đang hội nhập sâu rộng với thị trường quốc tế, đồng nghĩa với việc các hộ tiểu điền hiện đang trực tiếp cung cấp mủ và gỗ cao su cho các chuỗi cung toàn cầu này cần tuân thủ các yêu cầu của thị trường xuất khẩu. Đó chính là một trong những nội dung tại Hội thảo Liên kết tiêu thụ sản phẩm cao su tiểu điền: Thực trạng và ý nghĩa đối với sản xuất cao su bền vững tại Việt Nam, được tổ chức ngày 27/4.

Thu mua mủ cao su tiểu điền tại Công ty CPCS Phước Hòa. Ảnh: Vũ Phong.
Hộ tiểu điền – bộ phận quan trọng trong chuỗi cung cao su

Năm 2020, giá trị xuất khẩu ba nhóm mặt hàng: cao su thiên nhiên (CSTN), sản phẩm cao su, gỗ cao su và các mặt hàng được làm từ loại gỗ này đạt gần 7,9 tỷ USD, trong đó xuất khẩu CSTN đạt trên 2,38 tỷ USD, các mặt hàng từ gỗ cao su đạt 2,36 tỷ USD và nhóm sản phẩm cao su đạt trên 3,11 tỷ USD.

Trong đó, gần 80% lượng mủ khai thác trong nước được xuất khẩu dạng nguyên liệu CSTN; trên 20% được đưa vào chế biến tạo sản phẩm như lốp xe, găng tay, phụ kiện, đế giày, băng tải…để xuất khẩu và sử dụng trong nước.

Bên cạnh đó lượng cung gỗ nội địa cũng lớn, bình quân khoảng 5,5 triệu m³/năm. Đây là nguồn gỗ nguyên liệu đầu vào quan trọng tạo các mặt hàng gỗ xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn như Hoa Kỳ, Hàn Quốc và Nhật Bản. Trong đó nguồn gỗ từ các vườn cao su tiểu điền (CSTĐ) thanh lý đạt khoảng 1,3 triệu m³ quy tròn, tương đương 22% tổng lượng cung gỗ cao su toàn quốc.

Khẳng định vai trò ngày càng lớn đối với chuỗi cung CSTN và gỗ CSTĐ, ông Võ Hoàng An – Phó Chủ tịch, kiêm Tổng Thư ký VRA cho rằng, hộ tiểu điền là một bộ phận quan trọng trong chuỗi cung cao su hiện nay. Để thực hiện các thay đổi lớn trong ngành, hướng tới các sản phẩm hợp pháp và bền vững không thể không tính đến vai trò của hộ. Nhìn chung, các yêu cầu về chứng chỉ, đặc biệt là chứng chỉ FSC, vượt xa so với năng lực và trình độ quản lý hiện nay của các hộ. Bên cạnh đó, không phải toàn bộ 265.000 hộ đều có nhu cầu đạt chứng chỉ bền vững.

“Với xu hướng thị trường sử dụng các sản phẩm bền vững trong tương lai, chuẩn bị sẵn sàng cho các hộ thông qua việc trang bị kiến thức cơ bản về sản xuất cao su bền vững cho các hộ là công việc quan trọng. VRA, các cơ quan nghiên cứu, đào tạo, khuyến nông, hội nông dân, hội phụ nữ…là các đơn vị có thể thực hiện chức năng hỗ trợ cho hộ. Nhà nước cần hỗ trợ kinh phí để thực hiện công việc này. Ngoài ra, phát triển các mô hình liên kết giữa công ty cao su – hộ tiểu điền trong việc sản xuất cao su bền vững nên được phát triển và nhân rộng trong tương lai”, ông An nhấn mạnh.

Thiếu cơ quan đại diện cho hộ cao su tiểu điền

Hội thảo cũng chỉ rõ, vai trò CSTĐ ngày càng lớn trong chuỗi cung CSTN, nhưng thông tin về chuỗi cung nói chung, đặc biệt là về các mối liên kết giữa các hộ tiểu điền và các tác nhân khác trong việc tiêu thụ CSTĐ hiện rất thiếu. Ngoài ra, cũng rất ít các thông tin về cách thức vận hành của các liên kết, hình thức tổ chức mạng lưới thu mua, giá cả và cách xác định giá cả, chất lượng và cơ chế kiểm soát chất lượng sản phẩm, hình thức thỏa thuận mua bán, những thuận lợi và khó khăn của các bên khi tham gia liên kết này…

Ngành cao su đã và đang hội nhập sâu rộng với thị trường quốc tế, đồng nghĩa với việc các hộ tiểu điền hiện đang trực tiếp cung cấp mủ và gỗ cao su cho các chuỗi cung toàn cầu này cần tuân thủ các yêu cầu của thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên thiếu thông tin từ các khâu trong chuỗi cung, bao gồm thông tin về liên kết giữa các hộ tiểu điền và các đơn vị thu mua, đồng nghĩa với việc không đáp ứng được các yêu cầu của thị trường xuất khẩu…

Theo Tiến sĩ Trần Thị Thúy Hoa – Chuyên gia RRIV, đến nay vẫn còn thiếu một cơ quan đại diện cho các hộ tiểu điền, Hội Nông dân có chức năng “chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích của người nông dân”, tuy nhiên các lĩnh vực hoạt động thường rộng, không tập trung vào lĩnh vực phát triển cao su của hộ. Còn VRA có chức năng “đại diện cho các doanh nghiệp, tổ chức và công dân Việt Nam hoạt động trong ngành cao su hoặc có liên quan đến ngành cao su”, tuy nhiên cho đến nay chưa có sự tham gia của các hộ tiểu điền trong Hiệp hội.

Việc minh bạch thông tin về chuỗi cung, đảm bảo việc truy xuất nguồn gốc và tính hợp pháp của sản phẩm, là một trong những đòi hỏi cần thiết trong việc hướng tới chuỗi cung CSTN bền vững tại Việt Nam.

Cần các mô hình liên kết, hỗ trợ cao su tiểu điền trong chuỗi cung ứng bền vững.

Cần mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã

Tiến sĩ Nguyễn Vinh Quang – Đại diện Tổ chức Forest Trends cho rằng, nhu cầu về gỗ cao su có chứng chỉ bền vững hiện đang rất lớn, gần như toàn bộ các diện tích cao su hiện tại ở Việt Nam hiện chưa có chứng chỉ bền vững, trừ 11.400 ha của 3 công ty thuộc VRG đạt chứng chỉ Quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn của Việt Nam (VFSC) năm 2019 – Hệ thống VFSC đã được chương trình xác nhận Chứng chỉ rừng quốc tế (PEFC) công nhận. Việc đạt chứng chỉ rừng bền vững theo các tiêu chuẩn vàng (FSC) cho nguồn gỗ của tiểu điền sẽ đem lại lợi ích to lớn cho ngành cao su, bởi các lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường mà các sản phẩm có chứng chỉ đem lại.

“Liên kết với các công ty chế biến có thể là một trong những phương thức khả thi nhất, giúp hộ có thể trở thành một bộ phận trong chuỗi cung gỗ cao su bền vững… Trong liên kết tiêu thụ gỗ CSTĐ hiện nay, các hộ đang ở yếu thế. Vị thế của các hộ cần được nâng lên thông qua việc hình thành các tổ hợp tác hoặc hợp tác xã, là đơn vị đại diện cho quyền lợi hợp pháp và chính đáng của hộ. Việc tổ chức thành tổ hợp tác với nhiều hộ tham gia sẽ tạo ra nguồn lực lớn, có thể đầu tư trang thiết bị vườn cây, thậm chí cung cấp dịch vụ khai thác cho các hộ khác có nhu cầu. Hình thành các đơn vị đại diện cũng giúp cho việc chuyển tải các yêu cầu, kiến nghị của hộ tới các bên liên quan, bao gồm các cơ quan quản lý được tốt hơn…”, T.S Quang khẳng định.

Phát biểu tại Hội thảo, ông Bùi Chính Nghĩa, Phó Tổng cục trưởng, Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ NN&PTNT khẳng định, chính sách Nhà nước hiện nay chỉ có con đường là phát triển bền vững trong tất cả các ngành hàng. Đối với ngành cao su, CSTĐ đóng vai trò quan trọng, chiếm tỷ trọng trong các chuỗi cung CSTN xuất khẩu, với nguồn cung từ các vườn CSTĐ của 265.000 hộ gia đình, cung cấp hơn 732 ngàn tấn/năm.

“Việc liên kết tiêu thụ sản phẩm CSTĐ, mong rằng VRA và VRG là đơn vị đi đầu quan tâm, hỗ trợ, tìm được mô hình, bài toán để tổ chức liên kết hợp tác giúp người dân, doanh nghiệp. Liên kết mang ý nghĩa quan trọng trong việc duy trì chuỗi liên kết đạt tính bền vững, có chia sẻ lợi ích giữa các doanh nghiệp, giữa các hộ gia đình với nhau thì mới đạt được liên kết bền vững…”, ông Nghĩa nêu quan điểm.

NGUYỄN LÝ