VRG xây dựng thêm 27 dây chuyền chế biến giai đoạn 2018 – 2025

CSVN – Giai đoạn 2018 – 2035, sản lượng cao su VRG có tốc độ tăng trưởng rất nhanh. Trong khi năm 2018 sản lượng khoảng 300.000 tấn, thì đỉnh điểm năm 2031 lên 636.000 tấn/năm (tăng hơn 200% so với năm 2018). Chính vì vậy, từ năm 2018 – 2025 VRG dự kiến đầu tư thêm 27 dây chuyền chế biến. Trong đó sẽ có 11 nhà máy chế biến mới đưa vào hoạt động với tổng công suất thiết kế tăng thêm 176.250 tấn/năm.B
Khu vực Đông Nam bộ: Đầu tư, cải tạo nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm

Hiện nay, công suất tất cả các nhà máy chế biến (NMCB) khu vực Đông Nam bộ đều đáp ứng sản lượng chế biến của các đơn vị, việc đầu tư xây dựng thêm chủ yếu nhằm đa dạng hóa sản phẩm cũng như phát triển chủng loại sản phẩm là thế mạnh của công ty.

Cao su Phú Riềng sẽ xem xét đầu tư dây chuyền chế biến mủ tờ RSS công suất 3.000 tấn/năm, dự kiến thực hiện đầu tư sau năm 2020. Cao su Lộc Ninh tận dụng một phần cơ sở hạ tầng của dây chuyền cốm tinh và thiết bị hiện có xây dựng thêm dây chuyền mủ tờ công suất 3.000 tấn/năm từ năm 2018 – 2019, nhằm phát huy thế mạnh sản phẩm mủ tờ RSS của công ty. Song song đó, nâng cấp dây chuyền mủ SVR 10, 20 từ 4.500 tấn/năm lên 6.000 tấn/năm trong giai đoạn năm 2024-2025.

Cao su Phước Hòa xem xét đầu tư thêm dây chuyền mủ tờ RSS sau năm 2020 với công suất 3.000 tấn/năm. Đối với các công ty còn lại không đầu tư thêm các dây chuyền chế biến, sẽ nghiên cứu cải tạo nhằm nâng cấp chất lượng sản phẩm và giảm chi phí giá thành chế biến.

Tây Nguyên không quy hoạch thêm nhà máy

Nhìn chung các nhà máy khu vực Tây Nguyên hiện nay có hiệu suất chế biến thấp, năm 2017 chỉ đạt khoảng 62% công suất thiết kế. Do đó, giai đoạn 2017 – 2030 không quy hoạch thêm NMCB.

Ông Trần Minh – Trưởng Ban Công nghiệp VRG, cho biết: “Các công ty khu vực Tây Nguyên có diện tích mới đưa vào khai thác sản lượng còn thấp có thể xây dựng trạm cán vắt, chuyển nguyên liệu về các công ty mẹ để gia công. Ngoài ra, các nhà máy cần tích cực thu mua, gia công để phát huy công suất NMCB. Như các công ty: Cao su Bảo Lâm, Cao su Phước Hòa – Đắk Lắk, Cao su Đồng Phú Đắk Nông, Cao su Chư Mom Ray”.

Cao su Sa Thầy tiếp tục giãn tiến độ đầu tư dây chuyền mủ tờ RSS, đến sau năm 2021 sẽ xem xét khi có sản lượng vượt công suất dây chuyền SVR 10, 20 hiện nay.B2

Duyên hải miền Trung: Xây mới 3 dây chuyền

Đối với các công ty đã có NMCB, như: Cao su Bình Thuận, Cao su Hà Tĩnh và Cao su Quảng Trị đều thừa công suất thiết kế NMCB so với sản lượng khai thác, do đó không đầu tư thêm dây chuyền chế biến. Cao su Thanh Hóa có dây chuyền thiết bị đầu tư năm 2004 đã xuống cấp, cần đầu tư cải tạo để nâng cao chất lượng.

Cao su Quảng Nam đang trong quá trình lập hồ sơ thiết kế cơ sở dây chuyền mủ SVR 10, 20 công nghệ rút gọn, công suất 6.000 tấn/năm. Cao su Nam Giang – Quảng Nam trong giai đoạn 2018- 2020 không đầu tư xây dựng nhà máy chế biến, chỉ xây dựng các điểm cán vắt, sản lượng khai thác được gia công tại NMCB Cao su Quảng Nam. Từ năm 2022 xem xét đầu tư 1 nhà máy chế biến mủ SVR 10, 20 dây chuyền rút gọn công suất 6.000 tấn/năm.

Cao su Nghệ An trong giai đoạn 2017-2020 không đầu tư xây dựng nhà máy chế biến, chỉ xây dựng các điểm cán vắt, sản lượng khai thác được gia công tại NMCB Cao su Hà Tĩnh hoặc Cao su Thanh Hóa. Từ năm 2022 xem xét đầu tư nhà máy chế biến mủ SVR 10, 20 dây chuyền rút gọn công suất 6.000 tấn/năm.

Miền núi phía Bắc: Xây mới 5 nhà máy

Giai đoạn 2017-2020, khu vực miền núi phía Bắc đầu tư nhà máy chế biến Châu Thuận – Cao su Sơn La công suất 6.000 tấn/năm và nhà máy chế biến Cao su Lai Châu công suất 5.000 tấn/năm, chủng loại mủ SVR 10, 20. 2 nhà máy trên đáp ứng chế biến hết sản lượng khai thác của toàn khu vực đến năm 2020. Các công ty khác lập các điểm cán vắt và vận chuyển về 2 NMCB này để sản xuất.

Sau năm 2020, quy hoạch đầu tư thêm 3 nhà máy chế biến: Cao su Lai Châu II đầu tư dây chuyền chế biến mủ SVR 10,20 công nghệ rút gọn; công suất 7.000 tấn/năm vào năm 2022. Cao su Điện Biên năm 2022 đầu tư NMCB RSS. Cao su Dầu Tiếng – Lào Cai sau năm 2025 đầu tư nhà máy chế biến mủ SVR 10, 20 công nghệ rút gọn, công suất 3.000 tấn/năm, phục vụ các công ty khu vực Đông Bắc (Cao su Yên Bái, Cao su Hà Giang, Cao su Dầu Tiếng Lai Châu). Đối với Cao su Mường Nhé Điện Biên thực hiện chủ trương bán mủ nguyên liệu.B3

Khu vực Lào không quy hoạch thêm nhà máy

Cao su Việt Lào có tổng công suất thiết kế nhà máy chế biến là 21.000 tấn/năm đáp ứng công suất đỉnh của công ty, không quy hoạch đầu tư thêm dây chuyền chế biến. Cao su Quasa Geruco có công suất nhà máy 10.000 tấn/năm, đáp ứng sản lượng khai thác đến năm 2025. Để đáp ứng sản lượng đỉnh, NMCB có thể hoạt động tăng ca để có thể đáp ứng công suất đỉnh khoảng 12.300 tấn vào năm 2027.

Cao su Bolykhamsay – Hà Tĩnh xây dựng điểm cán vắt và vận chuyển về NMCB Quasa Geruco để chế biến. Dự án Sa Muội xây dựng các điểm cán vắt vận chuyển về NMCB của Cao su Quảng Trị để gia công chế biến. Cao su VRG Udomxay thực hiện phương án bán nguyên liệu, không đầu tư nhà máy chế biến.

Khu vực Campuchia chia làm 7 nhóm

15 công ty cao su tại Campuchia xây dựng các nhà máy chế biến theo mô hình quản lý Cụm chia làm 7 nhóm. Lộ trình xây dựng nhà máy chế biến dựa vào đỉnh sản lượng khai thác để đảm bảo mục tiêu tiết kiệm chi phí quản lý và đầu tư, với chi phí chế biến thấp, quản lý thống nhất chất lượng sản phẩm và thuận lợi cho việc xây dựng thương hiệu cao su VRG tại Campuchia.

Nhóm 1: Công ty CPCS Chư Sê – Kampongthom và Mê Kông với quy mô công suất chế biến 45.000 tấn/năm. Nhóm 2: Phước Hòa – Kampongthom; C.R.C.K (Chư Păh) quy mô công suất chế biến 25.000 tấn/năm. Nhóm 3: Tân Biên – Kampongthom, Bà Rịa – Kampongthom với quy mô công suất chế biến 27.000 tấn/năm. Nhóm 4: Tây Ninh – Siêm Riệp với quy mô công suất chế biến 11.500 tấn/năm. Nhóm 5: Đồng Phú – Kratie, Đồng Nai – Kratie, với quy mô công suất chế biến 20.000 tấn/năm. Nhóm 6: Lộc Ninh – Vketi, Bình Phước I, Dầu Tiếng – Cambodia, Dầu Tiếng – Kratie với quy mô công suất chế biến 22.000 tấn/năm. Nhóm 7: Krông Buk – Rattanakiri, Hoàng Anh Mang Yang K, với quy mô công suất chế biến 27.000 tấn/năm.

Ông Trương Minh Trung – Phó TGĐ VRG, nhận xét: “Việc xây dựng định hướng quy hoạch NMCB giúp Tập đoàn và các công ty chủ động trong việc xây dựng NMCB cũng như điều phối sản xuất giữa các công ty, tiết kiệm chi phí, tăng hiệu quả sử dụng NMCB trong toàn ngành. Việc quyết định đầu tư nhà máy chế biến cần được xem xét thêm yếu tố nguồn vốn, cân đối tài chính của công ty tại thời điểm dự kiến đầu tư, Tập đoàn sẽ quyết định thời điểm đầu tư, công suất, chủng loại sản phẩm, tổng mức đầu tư dựa trên điều kiện thực tế của từng công ty”.

TRẦN HUỲNH