CSVN – Sản lượng cao su thiên nhiên của Sri Lanka năm 1990 là 37,8 nghìn tấn trong khi năm 2019 là 24,3 nghìn tấn, giảm 13,5 nghìn tấn, từ khi giao cho tư nhân quản lý.
Đất đai trồng cao su chủ yếu do 22 công ty tư nhân quản lý
Cây cao su bắt đầu trồng tại Sri Lanka vào năm 1876 do ông Henry Wickham giới thiệu 1.700 cây giống. Trồng loại cây này được người dân hưởng ứng mạnh mẽ và đến năm 1907, diện tích trồng trong nước đã tăng lên 65.000 ha. Sở hữu đất trồng cao su chủ yếu là các tiểu điền, hiện được xác định là đất cao su có diện tích dưới 20 ha. Yếu tố đất đai cao su chủ yếu do các công ty nước ngoài sở hữu và quản lý, chiếm khoảng 35% tổng diện tích. Đến năm 1970, sản lượng và quy mô cao su cả nước lần lượt tăng lên 159 triệu kg và khoảng 230.000 ha. Các nông hộ nhỏ chiếm khoảng 2/3 sản lượng cao su tự nhiên của cả nước.
Với sự thay đổi trong chính sách của Chính phủ Sri Lanka, tất cả đất đai thuộc sở hữu của các công ty nước ngoài đã được quốc hữu hóa vào năm 1970. Mục tiêu của sự thay đổi này là nâng cao doanh thu của chính phủ thông qua tăng năng suất và lợi nhuận. Ban phát triển khu nhà Janatha thuộc sở hữu Nhà nước (JEDB) và Tổng công ty đồn điền Nhà nước Sri Lanka (SLSPC) chịu trách nhiệm quản lý các khu đất này sau khi quốc hữu hóa. Hai thập kỷ sau khi quốc hữu hóa, sản lượng cao su tự nhiên giảm xuống còn 123 triệu kg trong khi diện tích giảm xuống còn 200.000 ha.
Năng suất vườn cây trong thời kỳ này tương đối thấp so với các nước trồng cao su khác trên thế giới. Nguyên nhân được cho là chủ yếu do trồng dòng vô tính PB 86 chủ yếu trong nước, ngoài ra còn do lượng mưa hàng năm cao làm gián đoạn việc thu hoạch cao su, số lượng cây năng suất thấp trên một đơn vị diện tích đất và không áp dụng các hệ thống cạo mủ mới cùng với sử dụng các chất kích thích năng suất.
Với chính sách tự do hóa nền kinh tế của chính phủ, ngoại trừ một số điền trang hoạt động kém hiệu quả, phần quản lý còn lại được chuyển giao cho 22 công ty quản lý đồn điền tư nhân mới thành lập vào năm 1992. Chính phủ vẫn là cổ đông quan trọng và thời gian thuê là 53 năm kết thúc vào năm 2045. Đây là lần thay đổi cơ cấu thứ ba trong việc quản lý các điền trang ở Sri Lanka với giai đoạn đầu tiên là các công ty nước ngoài và giai đoạn thứ hai là tập đoàn Nhà nước.
Năng suất, sản lượng giảm
Báo cáo của đơn vị Tái cơ cấu rừng trồng cho biết điều kiện nông nghiệp và các cơ sở chế biến của các khu đất được chuyển giao cho các công ty tư nhân hoạt động khá tốt, đặc biệt là khi hoàn thành chương trình phát triển vốn do Ngân hàng Thế giới tài trợ. Do đó, đã xây dựng được nền tảng tốt trong việc cải thiện hoạt động của các khu đất thông qua quản lý thương mại hiệu quả và áp dụng các giải pháp điều hành phù hợp.
Khi xác định được những điểm yếu trong cách quản lý và áp dụng công nghệ trong thời kỳ quản lý Nhà nước, việc nâng cao hiệu quả hoạt động đã được dự đoán trước với việc tư nhân hóa việc quản lý đất đai trồng cao su. Những cải tiến trong áp dụng kỹ thuật nông nghiệp được áp dụng là đưa các dòng vô tính năng suất cao (thay thế PB 86), tăng mật độ cây cao su trong các khoảnh cần trồng, các chương trình bón phân thích hợp và sử dụng các kỹ thuật cạo mủ cùng với việc sử dụng các chất kích thích năng suất.
Trong nỗ lực đánh giá tác động của tư nhân hóa quản lý đối với hoạt động của đất cao su, một số chỉ số hoạt động chính của yếu tố đất cao su vài năm trước khi tư nhân hóa (1990), đã được so sánh với cùng một ghi nhận vào năm 2019. Rõ ràng trong năm 2019, các công ty quản lý đồn điền tư nhân đã hoàn thành khoảng 50% thời gian thuê 53 năm. Khoảng thời gian này dưới sự quản lý của tư nhân sẽ đưa ra một dấu hiệu hợp lý về mức độ cải tiến.
Thông tin thu thập được cho thấy tổng diện tích cao su trong yếu tố đất đai của cả nước đã giảm 23.110 ha, tức là giảm trung bình 1,4% mỗi năm, trong giai đoạn 1990 đến 2019. Đa dạng hóa cây trồng, chờ trồng lại những cao su không kinh tế, đất đai, thu hồi đất của chính phủ và diện tích đất trồng cao su không thể trồng riêng lẻ là nguyên nhân của sự chênh lệch này. Hơn nữa, cũng có thể thấy rõ ràng tỷ lệ cao su đến kỳ thu hoạch và chưa thu hoạch trong năm 2019 lần lượt chỉ khoảng 68,6% và 36,4% so với phạm vi năm 1990. Sản lượng cao su thiên nhiên quốc gia năm 1990 là 37,8 nghìn tấn trong khi năm 2019 là 24,3 nghìn tấn, tức là giảm 13,5 nghìn tấn. Theo đó, mức suy giảm trung bình hàng năm trong tổng sản lượng cao su tự nhiên trong giai đoạn 1990 đến 2019 là khoảng 1,2%. Năng suất vườn cây năm 1990 là 886 kg ha/năm trong khi năm 2019 giảm xuống còn 830 kg/ha/năm, tương đương với mức giảm trung bình hàng năm 0,2% trong suốt 27 năm do tư nhân quản lý.
Hơn nữa, sự sụt giảm về quy mô tái canh cao su, tức là khoảng 10.000 ha từ năm 1990 đến năm 2019 là dấu hiệu cho thấy sản lượng cao su quốc gia sẽ còn giảm trong tương lai. Sự sụt giảm sản lượng cao su dự đoán trong thời gian tới có thể còn tiếp tục nếu các cơ sở mới không có đủ số lượng nhà máy chất lượng.
Cần những thay đổi trong quản lý
Điều rõ ràng từ phân tích trên là hoạt động quản lý đất cao su do tư nhân quản lý đã thực sự giảm sút mặc dù rất kỳ vọng. Đây là điều đáng ngạc nhiên vì khu vực tư nhân được coi là động cơ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Hơn nữa, mặc dù cao su tư nhân được tiếp cận với các công nghệ cải tiến như nâng cao chất lượng cây trồng, dòng vô tính năng suất cao, máng chắn mưa để khắc phục tác động tiêu cực của mưa đến thu hoạch, mủ mật độ trồng làm tăng diện tích trồng trên ha và hệ thống cạo mủ cường độ thấp để giảm thiểu yêu cầu của công nhân và nâng cao năng suất của công nhân. Trên thực tế, đây là những công nghệ được xác định để khắc phục tình trạng hiệu quả thấp đã được ghi nhận trong quá trình quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực cao su.
Hoạt động chế biến của ngành cao su trong nước tiếp tục cho thấy sự tăng trưởng vượt bậc. Trên thực tế, sản lượng cao su trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu của các ngành sản xuất cao su thiên nhiên. Do đó, các nhà sản xuất sản phẩm cao su buộc phải nhập khẩu khoảng 60 nghìn tấn cao su thiên nhiên hàng năm, dẫn đến mất đi một dòng ngoại tệ có giá trị lớn từ trong nước. Trong bối cảnh đó, việc tăng sản lượng cao su trong nước là điều quan trọng hàng đầu để tiết kiệm ngoại hối, hỗ trợ ngành sản xuất sản phẩm cao su và phát triển nền kinh tế quốc dân.
Một tín hiệu khả quan là hiệu suất đã được cải thiện bởi một số công ty quản lý đồn điền tư nhân. Họ cam kết đạt được các mục tiêu tư nhân hóa thông qua một cơ cấu quản lý hiệu quả, đầu tư vào phát triển vốn và tuân thủ kỹ thuật nông nghiệp tốt. Việc nhân rộng các mô hình thành công như vậy cho các công ty quản lý đồn điền tư nhân khác là nhu cầu cấp thiết để đạt được sự thay đổi thực sự như dự kiến thông qua quá trình tư nhân hóa. Cổ đông quan trọng là chính phủ cần chủ động trong vấn đề này, đồng thời tạo môi trường kinh doanh để thời gian thuê đất kết thúc trong khoảng 22 năm, không phải là trở ngại cho việc tiếp tục phát triển và sử dụng vốn kỹ thuật nông nghiệp đảm bảo tính bền vững trong lĩnh vực sản xuất cao su của đất nước.
ASOKA NUGAWELA
Nguyên Giám đốc, Viện Nghiên cứu Cao su Sri Lanka
QUỐC AN (dịch từ Sundaytimes.lk)
Related posts:
- Chỉ sợi Sado mở rộng thị trường xuất khẩu
- Hàn Quốc tăng hơn 32% giá trị nhập khẩu cao su Việt Nam
- "Nâng cao khả năng thích nghi với các biến động của thị trường"
- Ông Nguyễn Ngọc Quỳnh - Phó TGĐ Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam: "Sự hỗ trợ của các đối tác trong ngà...
- Cơ hội từ CPTPP cho ngành cao su
- Tình hình thị trường cao su hiện nay qua nhận định của Hiệp hội Cao su VN
- Việt Nam cung cấp cao su lớn thứ 2 cho Trung Quốc
- Hiệp hội Cao su VN sẽ chi 25 tỷ đồng hỗ trợ doanh nghiệp
- Rubico phấn đấu tổng doanh thu đạt 596 tỷ đồng năm 2016
- Trông đợi nguồn vốn 100 nghìn tỷ, cho vay lãi suất ưu đãi chỉ 3-4%/năm