Cơ hội cho cao su mở rộng thị trường

CSVNO – Thông tin từ các công ty chuyên cung ứng cao su thiên nhiên bền vững cho các hãng lốp xe, thời trang, thiết bị y tế…, rất nhiều hãng muốn mua cao su thiên nhiên bền vững ở Việt Nam. Đây chính là cơ hội rất lớn cần ngành cao su Việt Nam nắm bắt.

Ảnh: Nguyễn Văn Sẵng

Cao su Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu
Những năm gần đây, nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm cao su thiên nhiên bền vững của ngành cao su Việt Nam ở nhiều nước ngày càng cao.
Theo đại diện các công ty thương mại lớn chuyên cung ứng sản phẩm cao su cho các nhà sản xuất toàn cầu, cao su thiên nhiên rất phổ biến trong chế biến sâu các sản phẩm từ lốp xe, linh kiện ô tô, đế giày, sản phẩm thể thao, thiết bị y tế.

Theo ông John Heath – Giám đốc Thương mại, Phụ trách Cao su thiên nhiên của nhà cung cấp cao su Corrie MacColl cho 600 doanh nghiệp trên toàn thế giới khẳng định: Hiện nay, thị trường châu Âu hiện đang dành nhiều sự quan tâm đến cao su có chứng chỉ FSC (chứng chỉ bền vững của Hội đồng Quản trị rừng thế giới). Chúng tôi bắt buộc phải mua cao su bền vững, vì đây là nhu cầu của khách hàng của chúng tôi.
Trong khi đó, đại diện công ty Yulex – cung ứng các sản phẩm cao su cho một số hãng nổi tiếng thế giới như Hermes Paris, Timberland, Hunter, H&M, Apple, Lego… cho biết, doanh nghiệp này chỉ phân phối các sản phẩm cao su bền vững có chứng chỉ FSC.
Theo ông Jeff Martin – Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc của Yulex, cao su thiên nhiên bền vững giúp họ sản xuất ra 40.000 hạng mục sản phẩm khác nhau để cung ứng cho thị trường trong các lĩnh vực y tế, công nghiệp, tiêu dùng.
Sử dụng cao su thiên nhiên bền vững chính sách quan trọng trong sản xuất và kinh doanh của các doang nghiệp sản xuất lốp xe và thu mua cao su lớn trên toàn cầu như Goodyear, Hankook, Michelin, Pirelli hay Sumitomo…

Theo thống kê của Hiệp hội Cao su Việt Nam, Việt Nam là quốc gia xuất khẩu cao su thiên nhiên lớn thứ 3 trên thế giới. Mỗi năm, khoảng 80% cao su thiên nhiên từ Việt Nam, bao gồm một lượng lớn nhập khẩu từ Campuchia và Lào, xuất khẩu với kim ngạch đạt 2,3 tỷ USD. Với kim ngạch này, ngành cao su đã trở thành một trong những ngành hàng nông lâm nghiệp xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam hiện nay.

TS. Tô Xuân Phúc, chuyên gia của tổ chức Forest Trends cho biết: Hiện chúng ta có thể dễ dàng thấy các sản phẩm gỗ được làm từ gỗ cao su có mặt trong các chuỗi cửa hàng đồ gỗ cao cấp ở Mỹ, Pháp, Anh. Chúng ta cũng có thể dễ dàng thấy cao su của Việt Nam có mặt tại các hãng sản xuất lốp xe lớn của Ý và Nhật… Điều này có nghĩa rằng các sản phẩm cao su của chúng ta, bao gồm cả nguồn cung từ 265.000 hộ tiểu điền đã trở thành một bộ phận quan trọng của chuỗi cung toàn cầu.


Tuy nhiên, cũng theo chuyên gia này, việc sản xuất cao su bền vững vẫn còn tương đối mới mẻ với ngành cao su Việt Nam, đặc biệt là đối với một số công ty và hộ cao su tiểu điền tham gia vào khâu sản xuất. Đến nay, các sản phẩm cao su thiên nhiên xuất khẩu của chúng ta chủ yếu vẫn ở dạng nguyên liệu thô và chưa có chứng nhận bền vững. Như vậy, để có thể nắm bắt được thị trường đòi hỏi chất lượng cao như các nước châu Âu, không chỉ cần tăng cao chất lượng mà còn cần đáp ứng được nhiều yêu cầu về nguồn nguyên liệu bền vững.
Chiến lược phát triển cao su bền vững
Chia sẻ với Báo Tin tức, ông Trần Ngọc Thuận, Chủ tịch Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA) cho biết: Những năm gần đây, nhu cầu của thị trường thế giới có sự dịch chuyển sang các sản phẩm cao su bền vững. Thị trường đã đưa ra những tín hiệu rõ ràng về ưu tiên các sản phẩm thân thiện với môi trường và không làm tổn hại đến cộng đồng. Các sản phẩm có chứng chỉ bền vững hứa hẹn đem lại giá trị gia tăng cao hơn và đảm bảo việc tiếp cận thị trường thế giới. Nhu cầu về cao su thiên nhiên có chứng chỉ bền vững ngày càng được ưa chuộng và mở rộng. Điều này đặt ra yêu cầu đối với các doanh nghiệp cao su thiên nhiên của Việt Nam cũng phải nỗ lực thay đổi theo hướng phát triển bền vững để duy trì thị phần lâu dài và ổn định trong bối cảnh giá cao su luôn ở mức thấp trong nhiều năm qua.


Theo ông John Heath, bền vững là chủ đề sôi nổi ở châu Âu nhiều năm nay. Đa phần các doanh nghiệp lớn hơn đều có riêng “chính sách thu mua bền vững” có phạm vi rất rộng. Chính sách này quy định các tiêu chuẩn rất cụ thể cho chính sản phẩm của họ và các nhà cung ứng. Việc gia tăng tham gia của luật pháp EU về lĩnh vực bền vững nhằm buộc các công ty phải chịu trách nhiệm trong phạm vi thẩm quyền của châu Âu, ngay cả khi vi phạm đó vượt quyền kiểm soát hoặc hiểu biết của họ.

Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế phát triển này. Từ năm 2012, Chính phủ đã đưa ra định hướng về phát triển bền vững, phê duyệt các Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh. Tiếp đó, năm 2017, Chương trình quốc gia về giảm phát thải khí nhà kính thông qua hạn chế mất và suy thoái rừng; bảo tồn, nâng cao trữ lượng carbon và quản lý bền vững tài nguyên rừng đến năm 2030 hay Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Điều này cho thấy sự quan tâm rất lớn của Chính phủ đối với việc phát triển bền vững tại Việt Nam.


Theo định hướng của Chính phủ, diện tích cao su của Việt Nam sẽ giữ ổn định ở mức khoảng 900 – 950 nghìn ha, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế. Đồng thời tái cơ cấu ngành cao su nhằm gia tăng giá trị và phát triển bền vững, khuyến khích phát triển sản phẩm cao su và tăng tiêu thụ nội địa, thử nghiệm và phát triển các mô hình sản xuất cao su bền vững qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu các sản phẩm cao su của Việt Nam…

Tháng 10/2020, VFCS đã được Tổ chức Chứng nhận Chứng chỉ Rừng (PEFC) phê duyệt, tạo thuận lợi cho việc quảng bá, tiếp thị khách hàng các sản phẩm mủ cao su và gỗ cao su có chứng chỉ của Việt Nam.

Tổng Cục lâm nghiệp và Vụ sản xuất Lâm nghiệp – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn triển khai thực hiện thí điểm Chứng chỉ rừng Việt Nam (VFCS). Theo đó, Hiệp hội Cao su Việt Nam quảng bá rộng rãi “Nhãn hiệu chứng nhận “Cao su Việt Nam” và hỗ trợ hội viên tuân thủ VFCS cũng như tích cực gia tăng nhận thức về phát triển bền vững và có trách nhiệm cho doanh nghiệp.

Về phía Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) đang nắm giữ khoảng 38,4% tổng diện tích rừng cao su (các hộ gia đình nắm giữ 51,9% và phần còn lại là của các công ty tư nhân) cũng đang triển khai hoạt động tái kết nối hướng đến chứng chỉ rừng FSC. Theo đại diện Tập đoàn này, cuối năm 2020, Tập đoàn sẽ có 56.000 ha cao su có chứng chỉ bền vững.


Trong tương lai, để phát triển cao su thiên nhiên bền vững, từ phía Hiệp hội cao su Việt Nam (VRA) và các doanh nghiệp thu mua đều cam sẽ hỗ trợ và khuyến khích hội viên tuân thủ Hệ thống chứng chỉ rừng quốc gia. Ngay khi tạo được nền tảng phát triển, cao su thiên nhiên bền vững của Việt Nam rất cần được kết nối, xúc tiến việc xuất khẩu tới các công ty mua cao su toàn cầu.

theo baotintuc