Các đơn vị Tây nguyên: Chất lượng mủ nguyên liệu nâng cao

CSVNO – So với năm 2016, năm 2017 tất cả các công ty cao su trực thuộc VRG trên địa bàn Tây nguyên bắt đầu quan tâm nhiều đến chất lượng và khối lượng mủ nguyên liệu tại vườn cây, tổ chức tốt công tác quản lý và vệ sinh mủ nguyên liệu, quản lý tốt công tác vệ sinh dụng cụ thu hoạch mủ theo TCCS 111:2016 của VRG. Nhờ vậy, chất lượng mủ nguyên liệu mủ tiếp nhận tại nhà máy được nâng cao rõ rệt.
Quang cảnh hội nghị
Quang cảnh hội nghị

Đây là đánh giá tại Hội nghị tổng kết công tác kiểm tra quản lý chế biến, chất lượng và môi trường khu vực Tây Nguyên vừa được Ban Công nghiệp VRG tổ chức vào sáng 3/10 tại Công ty TNHH MTV Cao su Chư Păh. Hơn 30 lãnh đạo, cán bộ của 8 đơn vị trên địa bàn Tây Nguyên tham dự.

Trong bảng đánh giá xếp loại công tác thu hoạch mủ ngoài vườn cây của Ban Công nghiệp VRG, Công ty TNHH MTV Cao su Chư Păh đạt số điểm cao nhất là 9, Công ty Chư Prông và Kon Tum đạt 8 điểm, ba công ty đạt 7 điểm là Ea H’leo, Mang Yang và Krông Buk, Công ty Chư Sê 6 điểm.

P. TGĐ VRG Trương Minh Trung phát biểu tại hội nghị
Phó TGĐ VRG Trương Minh Trung phát biểu tại hội nghị

Khu vực Tây Nguyên hiện có 8 công ty với 11 nhà máy chế biến, tổng công suất đạt 80.000 tấn/năm. Trong năm 2016 các đơn vị Tây Nguyên đã chế biến được trên 53.000 tấn sản phẩm. Cơ cấu sản phẩm gồm SVR 3L, 5L chiếm 49%, sản phẩm SVR 10 và 20 chiếm 35%, tỷ lệ SVR CV 50,60 chiếm 1%, mủ ly tâm là 3% và RSS chiếm 11%.

Tuy vậy, tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp và ủy thác của các đơn vị Tây Nguyên vẫn còn hạn chế khi xuất khẩu trực tiếp chỉ chiếm 15% và ủy thác xuất khẩu là 11,6%, còn lại là bán chuyến cho các công ty trong nước.

Bà Trần Thị Thúy Hoa - đại diện Hiệp hội cao su phát biểu tại hội nghị
Bà Trần Thị Thúy Hoa – đại diện Hiệp hội Cao su VN phát biểu tại hội nghị
Đại diện Công ty Mang Yang phát biểu ý kiến
Đại diện Công ty Mang Yang phát biểu ý kiến

Trong công tác bảo vệ môi trường, hầu hết các công ty đều bắt buộc áp dụng yêu cầu xả thải theo QCVN 01 –MT:2015/BTNMT và một số chỉ tiêu khác trong QCVN 40:2011/BTNMT (trừ Công ty Ea H’leo). Điều này đã gây khó cho các đơn vị trong công tác quản lý và xử lý nước thải về khâu đầu tư, vận hành và giám sát. So với năm 2016, công tác quản lý, vận hành trạm xử lý nước thải đã được chú trọng hơn, công nhân vận hành đã được đào tạo về chuyên môn.

Giai đoạn 2017 – 2020 VRG đặt mục tiêu sẽ sản xuất theo hướng tăng tỷ lệ chủng loại SVR 10, 20; SVR CV 50,60; latex ly tâm; cao su tờ xông khói RSS, đồng thời giảm SVR 3L. .

Tin, ảnh: Văn Vĩnh